Cách đây 50 năm, vào mùa xuân năm 1975, quân đội và nhân dân ta đã tạo nên một mốc son chói lọi mãi mãi được ghi dấu trong bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta, đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào ngày 30/4, giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước.

Kết quả đó là tổng hòa của rất nhiều trận chiến và những hy sinh xương máu của bao người đã ngã xuống. 50 năm đã trôi qua nhưng lịch sử không bao giờ phai mờ chiến thắng vang dội này của Quân đội và nhân dân Việt Nam. Trước đó đã có nhiều trận đánh, chiến dịch tạo tiền đề cho chiến dịch thần tốc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong đó có chiến dịch Phan Rang và chiến dịch Xuân Lộc – Đồng Nai.

Vào cuối tháng 3/1975, sau khi thất thủ ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu đã kêu gọi “lập phòng tuyến Phan Rang – Xuân Lộc” và xác định đây là một vị trí hết sức quan trọng. Tuyến phòng thủ Phan Rang – Xuân Lộc được xác định từ Du Long - nơi tiếp giáp giữa Khánh Hoà và Ninh Thuận - đến Xuân Lộc - Đồng Nai. Với kế hoạch “Nỗ lực tối đa” xây dựng tuyến phòng thủ từ xa, chính quyền Việt Nam Cộng hoà gọi đây là lá chắn thép hay phòng tuyến “tử thủ”.

Đại tá PGS TS Trần Ngọc Long, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Lịch sử Quân sự phân tích về lá chắn đặc biệt này: “Cuối tháng 3, đầu tháng 4/1975 khi quân giải phóng đã áp sát những địa bàn chiến lược bảo vệ từ xa Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng cân nhắc hai phương án: một là bảo vệ vùng biên Sài Gòn, hai là bảo vệ Sài Gòn từ xa. Cuối cùng chọn phương án bảo vệ Sài Gòn từ tuyến phòng thủ từ xa, tức là tuyến Phan Rang, gọi là lá chắn thép. Sở dĩ gọi là lá chắn thép vì địch tập trung ở đấy một lực lượng rất lớn với 3 điểm tựa, đó là: Sân bay Thành Sơn, nội thị Phan Rang và sân bay Ninh Chữ. Đó là cửa ngõ ra biển và chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố phải tử thủ Phan Rang”.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà khi đó đã bố trí một lực lượng rất mạnh với quân số khoảng trên 1 vạn, bao gồm sư đoàn 2 bộ binh với lữ đoàn 2 nhảy dù, Liên đoàn quân biệt động số 31, đặc biệt là Sư đoàn số 6 ở sân bay Thành Sơn và toàn bộ tàn quân ở Đà Nẵng, Tây Nguyên để lập tuyến phòng thủ ở Phan Rang. Với lực lượng phòng thủ này, chính quyền và ngụy quân Sài Gòn tin tưởng sẽ ngăn chặn được bước tiến của quân ta.

Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 7/4/1975, trước khi xuất phát hành quân Nam tiến, Quân đoàn 2 nhận được điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút. Xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng!”. Với tinh thần đó, cánh quân Duyên Hải gồm quân đoàn 2 và sư đoàn 3 Sao vàng kết hợp với các lực lượng vũ trang địa phương hành quân thần tốc quyết tâm đập tan ý đồ “tử thủ” của địch. Chỉ trong vòng chưa đến 3 ngày, từ 14/4 đến 9h30 phút ngày 16/4/1975 cờ Mặt trận giải phóng tung bay trên nóc Toà hành chính - cơ quan đầu não của chính quyền Sài gòn tại Ninh Thuận, đánh dấu tỉnh Ninh Thuận hoàn toàn được giải phóng. Dẫu là lá chắn thép, Phan Rang đã nhanh chóng bị thất thủ.

Đại tá PGS TS Trần Ngọc Long phân tích: “Địch lập phòng tuyến và tuyên bố là lá chắn thép nhưng lập trong thế bị động. Thứ hai binh lính của quân đội Sài Gòn tinh thần rệu rã, hoảng loạn sau khi một loạt điểm quân khu 1, 2 thất thủ. Tương quan lực lượng của cánh quân duyên hải mà chủ lực là Quân đoàn 2 hành tiến thần tốc vào tiêu diệt toàn bộ các điểm tựa, chốt phòng ngự của địch. Các tướng tá và Bộ chỉ huy Tư lệnh của địch tuy kêu gọi phải “tử thủ” nhưng cũng bắt đầu tính đến việc tháo chạy. Với những lý do như vậy thì việc lá chắn thép bị chọc thủng là điều đương nhiên”.

Sau chiến thắng Phan Rang, một chiến dịch quan trọng nữa là chiến dịch Xuân Lộc - Đồng Nai. Địa bàn Xuân Lộc được xác định là địa bàn chiến lược của cả 2 phía nên trận chiến diễn ra rất ác liệt với thế trận giằng co phức tạp, gây tổn thất cho cả 2 bên. Nhưng với sự sáng tạo, kết hợp chặt chẽ giữa các cánh quân chủ lực cùng lực lượng địa phương, chúng ta đã chuyển hoá thế trận, đập tan “cánh cửa thép” của địch bằng binh pháp cô lập, cắt rời. Trải qua hơn 12 ngày đêm chiến đấu gay go, ác liệt, từ ngày 9/4 đến rạng sáng ngày 21/4/1975, quân địch đã tháo chạy. Xuân Lộc, Long Khánh được giải phóng, tạo đà để quân ta tiếp tục giải phóng Biên Hoà, tiến vào Sài Gòn.

Thiếu tướng PGS TS Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự phân tích về ý nghĩa và những tác động của chiến thắng Xuân Lộc: “Chiến thắng Xuân Lộc đã đập tan cánh cửa thép hướng Đông, một hướng rất quan trọng mở đường cho quân ta tiến vào Sài Gòn. Mặt khác, đây là tuyến phòng thủ, điểm tựa cuối cùng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa và của chính quyền Sài Gòn, nên chiến thắng này là một đòn giáng mạnh làm cho tinh thần của địch hoảng loạn. Chiến thắng này cũng tạo đà cho chiến dịch Hồ Chí Minh “thần tốc, táo bạo, quyết chiến và toàn thắng”. Sau chiến thắng Xuân Lộc, thế giới đánh giá việc giải phóng Sài Gòn chỉ còn tính bằng giờ” - Thiếu tướng Vũ Quang Đạo phân tích.

Nếu chiến thắng của quân ta ở phòng tuyến Phan Rang đã đập tan ý đồ phòng thủ từ xa của địch, thì chiến thắng Xuân Lộc là bước mở tung cánh cửa thép, làm lung lay ý chí vốn đã rệu rã của địch. Bên cạnh đó, theo các nhà phân tích quân sự, những kinh nghiệm rút ra từ trận đánh Phan Rang đã góp phần không nhỏ vào quyết định thành lập "binh đoàn thọc sâu" của cánh quân phía Đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh sau đó ít ngày.

Theo đại tá PGS.TS Trần Ngọc Long, ngoài kết quả chọc thủng "lá chắn thép" mở đường cho cánh quân duyên hải cơ động hành quân về phía Nam, 2 trận tiến công Phan Rang – Xuân Lộc đã để lại những bài học vô cùng quý giá về nghệ thuật quân sự và nghệ thuật sử dụng lực lượng của quân đội nhân dân Việt Nam: “Sở dĩ có chiến thắng nhanh như vậy trước hết là ở nghệ thuật sử dụng lực lượng: Chúng ta sử dụng đột kích mạnh, lực lượng xe tăng có đủ sức mạnh đột kích thẳng vào trung tâm đầu não Bộ Tư lệnh quân đoàn 3. Thứ hai, chúng ta cũng tổ chức lực lượng chế áp và vô hiệu hóa bộ máy chính quyền Nguyễn Văn Thiệu của tỉnh Ninh Thuận. Thứ ba, tổ chức lực lượng hợp lý để phong tỏa không cho địch thoát chạy bằng đường biển cảng biển Ninh Chữ, gây nên không khí hoảng loạn. Nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự là chúng ta đã biết bao vây cô lập các vị trí của địch, không để tạo nên thế liên hoàn, không cho các lực lượng chi viện hỗ trợ lẫn nhau. Một bài học nữa là sự hiệp động giữa quân chủ lực và lực lượng tại chỗ. Sự phối hợp chặt chẽ và tuyệt đẹp để chọc thủng được tuyến phòng thủ”.

Hai trận chiến Phan Rang – Xuân Lộc có ý nghĩa lớn, thể hiện nét đặc sắc về nghệ thuật tấn công địch trong hành tiến. Việc mở toang lá chắn thép Phan Rang không chỉ tạo điều kiện cho cánh quân duyên hải hành quân thần tốc vào vị trí tập kết đúng thời gian quy định mà còn gây nên cơn hoảng loạn, cơn chấn động dữ dội đối với chính quyền Sài Gòn và đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Với sự nhạy bén phân tích tình thế chiến trường, sử dụng chiến thuật hợp lý, sự kết hợp tuyệt vời giữa quân chủ lực và bộ đội địa phương cùng nhân dân, chiến thắng Phan Rang và chiến thắng Xuân Lộc đã tạo chấn động mạnh đến tinh thần cũng như hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp bao quanh cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hoà. Đây thực sự là bước đà trực tiếp, hữu hiệu đã tạo thế mở đường cho đại quân ta tiếp tục thần tốc, mở cánh cửa thép tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.