Tháng 5/1972, khi đang là sinh viên đại học, ông Tống Hồng Quân nhập ngũ theo lệnh tổng động viên. 5 tháng sau, ông được đưa ra tàu 649 khi đó đang neo đậu ở biển Cát Bà, Hải Phòng chờ lệnh lên đường vào Cà Mau.

Bữa cơm đầu tiên trên tàu với ông cũng rất ấn tượng. 12 cán bộ, thủy thủ ngồi 2 mâm, mâm thứ 3 để cho kíp trực chiến đang làm nhiệm vụ. Thịt gà mấy đĩa đầy ú hụ. Đĩa gan lợn rán thái to dày, thịt chân giò sắt miếng, to, đầy có ngọn, giò lụa khúc to, cắt dày... Đĩa rau muống xào thịt bò mà chỉ thấy thịt chẳng thấy rau đâu. “Mọi người tiếp đón mình chu đáo quá” - Ông nghĩ. Chả mấy khi có bữa ăn nhiều thịt như thế nên ông ăn như “rồng cuốn”. Đang ăn ngon lành thì thuyền trưởng giục ăn nhanh còn lên đường. Thấy mọi người đứng dậy hết, ông ngượng ngùng định bỏ bát. Thấy vậy anh Lâm - máy trưởng vỗ vai ông nói vui: Ăn được thì cứ ăn thật nhiều vào để còn có cái mà nôn ra!

Chỉ sau một ngày, ông Quân đã biết chế độ ăn của lính đoàn 125. Khi tàu nhận lệnh ra khơi, mức ăn 1 ngày của thủy thủ là 2,5 đồng, gấp gần 4 lần tiêu chuẩn của lính trên bờ. Thực phẩm lại mua giá mậu dịch, được ưu tiên nên rất nhiều, rất ngon. Những người lính hải quân như ông thường nói đùa với nhau: "Tiêu chuẩn ăn để chết mà".
Hồi đó, ông đi tàu Quảng Châu - con tàu bé và lạc hậu nhất nên không có tủ lạnh. Thực phẩm bộ phận hậu cần đưa đến chỉ vài bữa đầu là tươi (gà, vịt, lợn, còn sống, mổ thịt ăn dần). Các bữa sau toàn ăn đồ hộp. Rau củ chỉ để được một, hai ngày là thối, úa.
Chiều muộn cuối tháng 11/1972, chuông báo động vang lên. Mọi người nhanh chóng về vị trí. Tiếng thuyền trưởng vang lên trên đài chỉ huy: Nhổ neo! Gần tới phao số 0, sóng bắt đầu to. Mũi tàu nhô lên, chúi xuống theo từng cơn sóng. Trong ca bin, ông Quân bắt đầu thấy chóng mặt, nôn nao. Thuyền trưởng nhìn ông vẻ ái ngại: "Nếu nôn thì mở cửa nôn ra ngoài, đừng nôn trong ca bin mất vệ sinh". Dù thấy rất khó chịu, bụng nôn nao, cồn cào, nhưng ông vẫn tự tin nói với thuyền trưởng: "Em không sao!". Rồi ông mở cửa ca bin ra ngoài cho thoáng. Vừa mở cửa, một luồng gió lạnh ngoài biển thốc vào mặt. Theo phản xạ, ông há mồm. Một dòng hỗn hợp cơm, rau nước vọt ra. Chưa kịp hoàn hồn, con tàu chồm lên rồi lại chúi xuống, cơm cháo còn lại trong bụng lại trào lên. Ông không kịp với cái xô vội bụm tay che miệng, mở cửa ca bin lao ra ọe tiếp. Bỗng ông thấy trong đám nôn của mình có 2 vật trắng, dài như chiếc đũa, đầu nhọn hoắt. Một vật nằm yên, một vật ngọ ngoạy. Ông rùng mình: giun! Không phải chỉ có ông say mềm mà lũ giun trong bụng cũng không chịu được, nhoài qua miệng ra ngoài.

Cuộc đời lính tàu Không số không chỉ đối đầu với cái chết không mồ, mà còn thường xuyên đối mặt với gian nguy, vất vả khi ra khơi, nhưng cái sợ nhất chính là say sóng. Đời lính thủy không đẹp như những câu chuyện, lời ca: "Dập dềnh biển mênh mông, sóng vỗ nhịp thân tàu... ". Chuyến đi ấy, ông Quân lênh đênh trên biển 5 ngày. Một buổi sáng sau khi đi ca, ông bừng tỉnh vì nghe tiếng reo: "Đất liền". Nhưng rồi ông ngỡ ngàng khi nhận ra những đảo quen thuộc như: Cát Bà, Cát Hải. Thả neo xong, thấy tàu vẫn "đằm" như trước. Hỏi ra ông mới biết tàu phải quay về vì "bến động" có nghĩa là bến định đến trong miền Nam có địch phục kích sẵn, nên tàu không thể vào được.
Thật là một chuyến đi ý nghĩa và nhớ mãi trong cuộc đời người lính hải quân của ông Tống Hồng Quân.