Mời nghe cuộc trao đổi giữa phóng viên VOV2 với Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng văn phòng Luật sư Đồng đội:
Chị Nguyễn Thị Thoa ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình băn khoăn:
Sau khi kết hôn, chồng tôi có đề xuất tôi ở nhà nội trợ, chăm sóc con nhỏ và bố mẹ chồng già yếu. Thấy chồng nói cũng hợp lý nên tôi cũng đồng ý. Tuy nhiên, nhiều lần vợ chồng xảy ra cãi vã, bố mẹ chồng và chồng đều nói tôi ở nhà ăn bám chồng, không chịu lo làm ăn, đồng thời cũng nói rằng tài sản trong nhà là của chồng tôi hết còn tôi không có quyền gì đối với số tài sản mà chồng tôi làm ra. Xin hỏi gia đình chồng tôi nói như vậy có đúng không? Công việc nội trợ có được coi là có đóng góp cho gia đình không?
Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng văn phòng Luật sư Đồng đội cho biết, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, công việc nội trợ trong gia đình được coi là lao động, có đóng góp cho gia đình, và hoàn toàn được pháp luật công nhận. Cụ thể:
- Theo khoản 2 Điều 16 Luật này quy định: công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
- Đặc biệt, tại khoản 1 Điều 29, Luật có quy định không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
Như vậy, công việc nội trợ, chăm sóc con cái, chăm sóc bố mẹ chồng, dù không mang lại thu nhập trực tiếp, vẫn được tính là một phần đóng góp vào khối tài sản chung của vợ chồng. Điều này có nghĩa là mọi thu nhập làm ra trong thời kỳ hôn nhân, dù đứng tên ai, đều là tài sản chung của cả hai vợ chồng và cả hai hoàn toàn có quyền đối với tài sản đó trừ trường hợp có thỏa thuận rõ ràng về việc đó là tài sản riêng hoặc được tặng cho, thừa kế riêng theo quy định pháp luật. Việc phủ nhận quyền này là vi phạm vào Điều 17 (Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng) và Điều 29 (Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng) Luật Hôn nhân gia đình 2014.
Theo pháp luật hiện hành, chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Cụ thể:
Tài sản chung của vợ, chồng là những tài sản được hình thành trong suốt quá trình chung sống của vợ và hợp tác kinh tế trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản riêng của vợ, chồng là những tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng sau khi kết hôn.
Tài sản chung của vợ, chồng bao gồm:
Tài sản do vợ, chồng gây dựng thông qua lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân như: tiền lương, thưởng, tiền tiết kiệm, thu nhập từ kinh doanh, đầu tư,…
Tài sản là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên;
Tài sản được hai bên thừa kế hoặc được người khác tặng cho cả hai vợ chồng;
Phần tài sản được sử dụng cho nhu cầu gia đình, nghĩa vụ chung của vợ chồng;
Tài sản được đôi bên thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm:
Tài sản mà vợ hoặc chồng đã sở hữu trước khi kết hôn như nhà đất, tiền tiết kiệm, cổ phiếu, phương tiện đi lại…;
Tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế, được cho riêng, không phải cho cả hai vợ chồng;
Tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra từ lao động, kinh doanh riêng lẻ, không dùng công sức chung hoặc tài sản chung;
Các khoản bồi thường mà một bên nhận được như bồi thường tai nạn, bảo hiểm nhân thọ…
Các tài sản khác mà pháp luật quy định là tài sản riêng.
Theo Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng văn phòng Luật sư Đồng đội, để được chồng và gia đình chồng coi trọng công sức mà thính giả đã đóng góp cho gia đình, trước hết, chính người vợ cần nhận thức rõ giá trị của bản thân mình. Nội trợ không phải là "ở không", mà là một dạng lao động không lương, nhưng có đóng góp trực tiếp vào sự ổn định và hạnh phúc của gia đình.
Thứ hai, cần chia sẻ thẳng thắn với chồng là rất quan trọng. Nhiều khi, sự xem nhẹ không đến từ ác ý, mà từ sự thiếu hiểu biết. Nếu người chồng hiểu rằng: pháp luật cũng công nhận công việc nội trợ là lao động có giá trị – thì có thể cách nhìn của anh ấy sẽ thay đổi. Khi người chồng thay đổi, gia đình chồng cũng sẽ dần thay đổi theo.
Cuối cùng, trong trường hợp bị xúc phạm hoặc phủ nhận quyền lợi, chị hoàn toàn có thể tìm đến pháp luật để được bảo vệ. Bởi vì, mọi công sức – dù là trong gia đình hay ngoài xã hội – nếu đóng góp vào cuộc sống hôn nhân, đều được pháp luật trân trọng và bảo vệ bình đẳng.